Top 10 Quân Sư Giỏi Nhất Trung Quốc : Ai Là Đệ Nhất? 10 Quân Sư Giỏi Nhất Trung Quốc

Mặc dù rất khó để tìm ra được người giỏi nhất trong tất cả các vị quân sư này nhưng 12 cái tên sau đây có thể xem là những cái tên nổi bật nhất Trung Hoa cổ đại.

Đang xem: 10 quân sư giỏi nhất trung quốc

1. Bàng Thống

Bàng Thống, tự Sỹ Nguyên (178-214), đạo hiệu Phượng Sồ tiên sinh, sống vào cuối thời nhà Hán, đầu thời Tam Quốc, thường được người đời sau so sánh là tài ngang với Khổng Minh. Tư Mã Huy (Thủy Kính tiên sinh) nhận xét: “Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phượng Sồ (tức Bàng Thống) thì có thể định hưng được thiên hạ”.

*

Trong trận Xích Bích, Bàng Thống hiến kế cho Tào Tháo dùng xích sắt ghép các thuyền lại thành một cụm để tránh cho quân sĩ say sóng, nhưng thực chất là để quân Ngô Thục tiện dùng kế hỏa công. Nhờ Bàng Thống mà khi Chu Du sử dụng hỏa công, thuyền của Tào Tháo tập trung lại thành một cụm nên không chạy thoát được, cháy rụi hết, góp phần rất lớn cho trận thắng Xích Bích.

Sau này khi Chu Du mất, Tôn Quyền không còn trọng dụng, Bàng Thống đã về phò tá Lưu Bị, làm chức Quân sư trung lang tướng, cùng cấp với Gia Cát Lượng. Với vai trò quân sư, Bàng Thống dẫn 5 vạn quân vào Tây Xuyên, cùng Pháp Chính bàn mưu chiếm Tây Thục của Lưu Chương, tạo nên lãnh thổ rộng lớn của nhà Thục Hán. Tuy nhiên, trong chiến dịch này ông bị trúng tên, mất tại đồi Lạc Phương khi mới 36 tuổi.

2. Tư Mã Ý

Tư Mã Ý (179 – 251) tự Trọng Đạt, là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất, người đặt nền móng cho nhà Tây Tấn thay thế nhà Ngụỵ.

Ông nổi tiếng nhất với các chiến dịch bảo vệ lãnh thổ Tào Ngụy khỏi các cuộc Bắc phạt của Gia Cát Lượng. Tư Mã Ý là một vị tướng, nhà chiến lược quân sự đa mưu túc trí có thể sánh ngang Gia Cát Khổng Minh. Hai người trở thành cặp kỳ phùng địch thủ, đánh nhau rất nhiều lần nhưng không ai tiêu diệt được ai.

*

Trong thời gian phục vụ nhà Tào Ngụy, Tư Mã Ý lập được rất nhiều chiến công như: Đánh bại Công Tôn Uyên, dẹp loạn Vương Lăng và nhiều chiến công hiển hách khác. Vị trí quyền lực nhất của ông trong triều đình nhà Ngụy đã tạo điều kiện cho hai con ông là Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu nắm quyền lực thực tế của nhà Ngụy, tạo tiền đề cho cháu của ông là Tư Mã Viêm soán ngôi nhà Ngụy, thành lập nhà Tấn, thống nhất Trung Hoa, chấm dứt thời kỳ Tam Quốc. Sau khi nhà Tấn lập, Tư Mã Ý được cháu mình truy tôn thụy hiệu là Tấn Tuyên Đế, miếu hiệu Cao Tổ.

3. Quách Gia

Quách Gia (170 – 207), tự Phụng Hiếu, là nhà chiến lược và quân sư trọng yếu của Tào Tháo trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam Quốc tại Trung Quốc.

Trong 11 năm phục vụ cho Tào Tháo, tài năng của Quách Gia đã góp công lớn giúp Tào Tháo chiến thắng các lãnh chúa kẻ thù như Lã Bố và Viên Thiệu, cũng như thủ lĩnh của bộ lạc Ô Hoàn là Đạp Đốn. Chính vì thế, ông là một trong những bộ hạ được tin tưởng và yêu quý nhất của Tào Tháo.

*

Trong trận Quan Độ, đứng trước trận tiền ông có nói với Tào Tháo: “Thừa tướng còn đang theo dõi đợi chờ à?”. Tào Tháo trả lời: “Viên Thiệu thế định tới đây đáng nhẽ phải giữ thế tấn công, nay hắn lại dùng phụng bài trước trận tiền, ý của ngươi là hắn muốn thủ?”. Khi đó Quách Gia nói một câu chính xác ý nghĩa cho cả trận đánh: “Viên Thiệu có thể thủ, nhưng Thừa tướng không thể nào làm như vậy, quân ta tinh nhuệ một chọi lại mười, cần phải tác chiến ngay lập tức, chần chừ đôi lúc lòng quân phập phồng thì nguy hiểm lắm”.

Quách Gia thường được xem là một trong những mưu sĩ xuất sắc nhất thời Tam Quốc và cả xuyên suốt lịch sử Trung Quốc, không hề thua kém người đương thời là Gia Cát Lượng.

4. Gia Cát Lượng

Gia Cát Lượng (181 – 234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự kiệt xuất, nhà tiên tri nổi tiếng.

Gia Cát Lượng là một nhà ngoại giao cự phách và cũng là một nhà phát minh tài ba. Trong lĩnh vực quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy). Tương truyền, ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa.

*

Đóng góp lớn nhất của Gia Cát Lượng chính là việc bày ra “Long Trung đối sách”. Chiến lược này được coi là nền tảng để Lưu bị đánh chiếm đất đai nhằm tạo thế chân vạc với hai thế lực chính thời bấy giờ là Tào Tháo và Tôn Quyền. Ông được công nhận là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của mình và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử.

5. Chu Du

Chu Du (175 – 210), tự Công Cẩn, đương thời gọi Chu Lang, là danh tướng khai quốc công thần của nước Ngô (Đông Ngô) thời Tam Quốc. Tương truyền, Chu Du đẹp trai và rất giỏi âm luật nên được gọi là Mỹ Chu Lang. Ông là nhà quân sự tài ba, chuyên về thủy chiến, chức vụ chính thức là Đại đô đốc thủy quân, nên được gọi là Chu Đô đốc. Chu Du nổi tiếng với chiến thắng ở sông Xích Bích trước quân Tào Tháo, là trận chiến lớn nhất thời đó.

*

Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, La Quán Trung xây dựng Chu Du thành hình tượng một người luôn đố kỵ với tài năng của Gia Cát Lượng, nổi tiếng hơn cả với câu nói: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?“. Tuy nhiên, trên thực tế, Chu Du là người khí độ cao thượng, phong lưu tài tử, văn võ toàn tài, hoàn toàn không có chuyện đố kỵ nhỏ nhen như thế. Trong “Tam Quốc Chí” (sử liệu đáng tin nhất về thời Tam Quốc của sử gia Trần Thọ) đánh giá Chu Du: “Tính tình khoáng đạt, đại lượng… là bậc kỳ tài!”. Ông đối với người bề dưới đều có lễ nghĩa, được mọi người vô cùng kính trọng.

Sau này, khi Chu Du mất ở tuổi 35, Giang Đông cũng thiếu đi một tướng quân dũng lược, chí khí, đối với Ngụy và Thục trước sau chỉ có thể là phòng thủ mà thôi. Nếu Chu Lang có thể sống thêm 20 năm nữa, cục diện Tam Quốc có lẽ đã khác đi nhiều lắm.

6. Lục Tốn

Lục Tốn (183 – 245) tự Bá Ngôn, là tướng lĩnh cũng là quân sư của Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng qua trận Di Lăng vào năm 222 đánh bại quân Thục Hán của Lưu Bị, khiến ông trở thành một trong những quân sư nổi tiếng của thời Tam Quốc.

Xem thêm:

Năm 219, nhân lúc Lưu Bị và Tào Tháo đanh tranh giành Hán Trung, Quan Vũ lại dẫn quân đánh Tương Dương, không quan tâm đến Kinh Châu – nơi Đông Ngô đã dòm ngó từ lâu – Lục Tốn đã bày kế cho Lã Mông chiếm Kinh Châu, giết được đại tướng của Thục Hán là Quan Vũ, phá tan âm mưu lấy Kinh Châu làm bàn đạp đánh Tào Ngụy của Gia Cát Lượng.

*

Năm 222, Lưu Bị dẫn 75 vạn quân đánh Đông Ngô báo thù cho Quan Vũ. Lúc này các quân sư hàng đầu của Đông Ngô như Chu Du, Lỗ Túc và Lã Mông đã qua đời nên trọng trách bảo vệ Đông Ngô được giao cho Lục Tốn. Biết Lưu Bị không có kinh nghiệm dùng binh, đóng quân ở nơi tử địa nên Lục Tốn đã dùng hỏa công tiêu diệt 70 doanh trại của Lưu Bị, đánh tan 75 vạn quân của Lưu Bị.

Sau trận Di Lăng, Đông Ngô và Thục Hán kí hòa ước nên từ năm 222 đến năm 245, Lục Tốn đã nhiều lần đánh đuổi quân Ngụy, bảo vệ thành công Đông Ngô. Ông được cho là người phát ngôn câu nói nổi tiếng: “Lấy dân làm gốc, dân giàu thì nước mạnh, dân nghèo thì nước yếu”.

7. Khương Tử Nha

Khương Tử Nha (1156 – 1017 TCN), nguyên họ tên là Khương Vọng, còn tên là Tử Nha, vốn thuộc thị tộc mang huyết thống họ Khương, sau thiên cư sang đất Lã (phía Tây Nam Dương, Hà Nam ngày nay) nên đổi sang họ Lã. Khi làm Thái sứ triều Chu, được tôn xưng là Sư Thượng phu (người cha tôn kính của quân đội) nên đời sau gọi ông là Lã Thượng. Ông phò tá Chu Vũ Vương diệt nhà Thương, đồng thời cũng là người gây dựng nên nước Tề, nhờ có công mà ông được phong cho đất Tề và trở thành thủy tổ của nước Tề thời Chu. Trở thành Quốc Quân một nước chư hầu, Lã Thượng đã thi hành một chính sách sáng suốt và khôn khéo để thu phục lòng người, như tôn trọng phong tục bản địa, đơn giản mọi lễ nghi phiền toái, mở mang công thương nghiệp, khai thác nguồn lợi của nghề đánh cá, làm muối… Tề sau này trở thành một nước mạnh suốt trong thời Tây và Đông Chu là nhờ công khai sáng của Lã Thượng.

*

Trong lịch sử Trung Hoa, Khương Tử Nha là nhà chính trị, nhà quân sự và mưu lược nổi tiếng nhất. Khương Tử Nha thọ đến 139 tuổi. Dân gian Trung Quốc cũng lưu truyền câu nói rằng “Khương Thượng trước, Tôn Tẫn sau, năm trăm năm trước Gia Cát Lượng, năm trăm năm sau Lưu Bá Ôn”.

Đã có nhiều truyền thuyết được lưu truyền xung quanh cuộc đời ông trước khi ông theo phò tá nhà Chu, hầu hết đều đề cập tới việc “”Lã Vọng là con cháu của một dòng họ quý tộc đã sa sút cuối đời Thượng, thời niên thiếu được hấp thụ nền giáo dục dành riêng cho giới quý tộc nên có học vấn uyên bác. Sau vì lận đận nhiều trong cuộc sống, không được vua Trụ trọng dụng, ông phiêu bạt khắp nước và rồi về ngồi câu cá bên Sông Vị để chờ thời”. Điển tích này là đề tài cho bức tranh ông già buông cần câu bên Sông Vị. Sau Chu Văn Vương đi tới, gặp gỡ và đàm đạo, phát hiện ra ông là nhân tài xuất chúng liền đón về, phong làm Thái sư – chức quan cao nhất cả về quân sự và chính trị đầu đời Chu.

8. Tôn Tẫn

*

Tôn Tẫn là vị quân sư nổi danh thời Chiến Quốc, là hậu duệ của Tôn Vũ. Thuở niên thiếu, ông từng cùng với Bàng Quyên theo học binh pháp của Quỷ Cốc Tử. Sau khi Bàng Quyên làm tướng nhà Ngụy, liền đố kỵ với tài của Tôn Tẫn mà lừa gạt ông đến nước Ngụy rồi vu tội cho, khiến Tôn Tẫn bị chặt xương đầu gối (tẫn hình).Chữ Tẫn trong tên của ông xuất phát từ hình phạt này mà ra. Sau này ông được sứ giả nước Tề đưa về Tề Quốc. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài của Tôn Tẫn nên đã tâu với Tề Uy Vương phong ông làm thầy. Thời ấy, Tề Uy Vương đang tranh chấp cùng Ngụy nên muốn thu nhận hiền tài, coi trọng tài năng quân sự của Tôn Tẫn mà thu nhận ông làm quân sự. “Tôn Tẫn binh pháp” của ông là kế thừa tư tưởng quân sự của Tôn Vũ.

9. Trương Lương

Trương Lương(250 – 186 TCN), tự là Tử Phòng, là mưu thần của Hán Cao Tổ Lưu Bang, là nhà quân sự, chính trị kiệt xuất thời Tần mạt, Hán sơ kỳ. Ông là người có công lớn trong khai quốc Hán Vương triều. Trương Lương được xưng là một trong ba người tài giỏi xuất chúng thời đầu nhà Hán (Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà).

Do có công lao trong chiến tranh Hán – Sở, Trương Lương được Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ) hết sức kính trọng và đánh giá: “”Bàn định mưu lược trong màn trướng, quyết định thắng lợi ngoài ngàn dặm, ta không bằng Trương Lương” và cho ông được chọn lấy một vùng có ba vạn hộ ở đất Tề để phong, nhưng Trương Lương từ tạ, chỉ xin nhận phong ở đất Lưu – một vùng nhỏ hẹp hơn nhiều là nơi mà Trương Lương gặp Lưu Bang ngày trước. Hán Cao Tổ liền phong ông là Lưu hầu.

*

Tài năng của Trương Lương trong việc phò tá Lưu Bang dựng nên nghiệp nhà Hán đã tỏ rõ ông có tầm nhìn chính trị xa rộng, năng lực phân tích tâm lý tinh tế, nhãn quan chiến lược sắc sảo và tài phân tích, thu phục lòng người khôn khéo.

Những năm cuối đời, Trương Lương sống như một ẩn sĩ. Khi viết Sử ký, nhà sử học nổi tiếng Tư Mã Thiên đã xếp những câu chuyện về ông vào phần Thế gia là phần dành cho những nước chư hầu, những người có địa vị lớn trong giới quý tộc, những nhân vật nổi tiếng như Trần Thiệp (tức Trần Thắng) hay Khổng Tử, trong khi chỉ xếp truyện về Hàn Tín vào phần Liệt truyện (những người hoặc sự kiện kém quan trọng hơn.

10. Vương Mãnh

*

Vương Mãnh(325 – 375),tên chữ là Cảnh Lược, người Bắc Hải thời Đông Tấn. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự nổi danh của thời kỳ Thập lục quốc, thừa tướng của nước Tiền Tần, đại tướng quân, phụ tá Phù Kiên bình định thiên hạ, thống nhất phương bắc. Thuở nhỏ, Vương Mãnh sống trong cảnh nghèo khó nhưng yêu thích học tập, đọc sách binh pháp. Ông là người cẩn trọng, khí độ bất phàm, không câu nệ tiểu tiết, cũng hiếm khi hòa hợp với người khác, ít kết giao nên bị các học giả thời ấy khinh thường. Tuy nhiên, Vương Mãnh không vì thế mà cảm thấy buồn bã.

11. Triệu Phổ

*

Triệu Phổ(922 – 992), tự là Tắc Bình, là nhà chính trị kiệt xuất thời đầu Bắc Tống và cũng là mưu sĩ nổi danh trong lịch sử Trung Hoa. Triệu Phổ 3 lần làm tướng, nổi danh 1 triều, làm chính trị 50 năm, thọ 71 tuổi. Triệu Phổ ít đọc sách nhưng lại túc trí đa mưu. Ông chỉ có quyển “Bán bộ Luận ngữ trị thiên hạ”.

12. Lưu Cơ

Lưu Cơ tự là Bá Ôn, sinh năm 1311 tại thôn Dương Võ, huyện Thanh Điền. Ông là nhà mưu lược quân sự kiệt xuất cuối nhà Nguyên đầu nhà Minh. Ông vừa là nhà chính trị, tác gia và nhà tư tưởng, thông kinh sử hiểu thiên văn, tinh binh pháp. Ông là người Hán và là khai quốc công thần triều Minh.

*

Lưu Bá Ôn là công thần khai quốc của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình Nho học từng có truyền thống chiến đấu dũng cảm chống lại quân xâm lược Nguyên Mông trước đây. Nhờ chăm chỉ, đam mê đọc sách nên ông sớm làu thông kinh sử, văn chương, binh pháp và thiên văn. Năm Nguyên Thống thứ nhất đời Nguyên Thuận Đế (1333), ông thi và đỗ tiến sĩ, rồi được bổ làm quan, nhưng vì bị chèn ép, chỉ trích nên ông bỏ về ở ẩn năm 1360.

Từ sau khi trở thành mưu sĩ tài ba của Chu Nguyên Chương, ông đã giúp Chu Nguyên Chương lần lượt đánh bại các tập đoàn quân phiệt khác như Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành, nhiều lần biến nguy thành an. Các chiến thắng quan trọng ở thành Thái Bình, An Khánh, Giang Châu, hồ Bà Dương chống Trần Hữu Lượng, ở Kiến Đức chống lại Trương Sĩ Thành cũng như việc quy hàng của Phương Quốc Trân và nhiều thế lực địa phương khác đều do Lưu Bá Ôn bày mưu tính kế. Đặc biệt tại hồ Bà Dương, ông cùng với Chu Nguyên Chương trực tiếp chỉ huy cuộc chiến và đã một lần cứu thoát Chu Nguyên Chương khỏi bị đạn pháo của quân địch bắn trúng.

Xem thêm:

Nếu du khách là người có niềm đam mê với văn hóa, lịch sử của đất nước Trung Hoa thì hãy đặt cho mình một tourdu lịch Trung QuốccủaViet Viet Tourismnhé! Chắc chắn du khách sẽ có được những sự hiểu biết thú vị khi đặt chân đến vùng đất rộng lớn này.

Leave a comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *